Thứ hai, 28 Tháng 8 2017 15:44
Hiện nay, bất cứ một cơ sở đào tạo nào cũng có hai nhiệm vụ chính và quan trọng nhất đó là đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đây là hoạt động có mối quan hệ hữu cơ, hai nhiệm vụ cơ bản chiến lược của một nhà trường, trong đó việc đẩy mạnh giảng viên tích cực tham gia các hoạt động NCKH là một trong những biện pháp quan trọng - bắt buộc - cần thiết để hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng khắt khe của xã hội.
Thực tiễn và lý luận đều chứng minh một cách rõ ràng rằng, NCKH và giảng dạy có mối quan hệ hữu cơ với nhau, gắn kết chặt chẽ với nhau và hỗ trợ cho nhau. NCKH tạo cơ sở, điều kiện, tiền đề nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy.Ngược lại, công tác giảng dạy phản ánh kết quả của hoạt động NCKH. Do vậy, có thể khẳng định rằng, cùng với hoạt động giảng dạy, NCKH là thước đo năng lực chuyên môn của người giảng viên.
Nhận thức được điều đó, Ban lãnh đạo trường Bồi dưỡng Cán bộ đã luôn quan tâm, chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học đối với giảng viên củatrường.Thể hiện ở việc trường đã có những định hướng, khuyến khích hàng năm, luôn quán triệt sâu sắc nhiệm vụ nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm; chú trọng nâng cao chất lượng và hiệu quả của các công trình nghiên cứu khoa học; khơi dậy năng lực nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ giảng viên. Nhờ đó hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên đã phát triển cả về số lượng, chất lượng và hiệu quả. Cụ thể:
Trong giai đoạn 2015-2017, đội ngũ giảng viên của trường đã hoàn thành việc biên soạn 7 cuốn giáo trình phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã. Trong năm 2017 đội ngũ giảng viên tiếp tục biên soạn mới 3 cuốn giáo trình.
Hoàn thành đúng tiến độ 1 đề tài, 1 đề án và hiện nay đang triển khai đề tài: Nghiên cứu, đề xuất giải pháp phát triển mô hình HTX kiểu mới gắn với chuỗi giá trị sản xuất thực phẩm an toàn tại tỉnh Bắc Kạn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên Trường Bồi dưỡng Cán bộ vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục trong giai đoạn tới. Cụ thể như:
Thứ nhất, một số giảng viên trẻ vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của NCKH, do vậy, giảng viên chưa thực sự chủ động đưa ra các đề tài để nghiên cứu, các giáo trình, tài liệu mang tính thực tiễn phục vụ công tác giảng dạy.
Thứ hai, tồn tại một bộ phận giảng viên chưa nắm vững phương pháp nghiên cứu khoa học, cách tìm tài liệu tham khảo, thậm chí, chưa nắm vững xây dựng đề cương, chưa chú ý tìm hiểu cách trình bày một công trình nghiên cứu khoa học, cách trình bày một giáo trình, tài liệu chuyên ngành... Điều này sẽ dẫn một số lỗi thường mắc phải trong NCKH của giảng viên như: Phạm vi nghiên cứu thường rộng, nặng tính lý thuyết, đối tượng nghiên cứu không rõ ràng, dùng từ ngữ chuyên môn thiếu tính chính xác,...
Thứ ba, một bộ phận giảng viên trong quá trình NCKH, biên soạn tài liệu, giáo trình, do còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ, nên trong quá trình tham khảo tài liệu còn quá lệ thuộc vào Internet. Các tài liệu giảng viên sử dụng đều bằng tiếng Việt, do các nhà nghiên cứu trong nước biên soạn, hoặc dịch lại từ nguyên bản tiếng Anh, Pháp,...Vì vậy, tính thiết thực của tài liệu sử dụng giảm đi rất nhiều và nội dung của các công trình nghiên cứu còn chưa phong phú.
Thứ tư, kinh phí phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học, biên soạn tài liệu, giáo trình của giảng viên không nhiều.Đây cũng là điểm bất cập, gây khó khăn cho công tác phát triển NCKH trong giảng viên.
Như vậy, có thể thấy kết quả NCKH của giảng viên phản ánh chất lượng đào tạo của nhà trường. Để NCKH đạt được kết quả tốt hơn – góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, thiết nghĩ cần phải có sự kết hợp và triển khai một cách đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, Ban lãnh đạo trường cần chú trọng hơn nữa công tác chỉ đạo, lãnh đạo trong hoạt động nghiên cứu khoa học, xác định đây là một nhiệm vụ rất quan trọng đối với vị thế của nhà trường để từ đó thực hiện những biện pháp vừa bắt buộc, vừa khuyến khích giảng viên nghiên cứu khoa học. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về hoạt động Khoa học công nghệ, cũng như các qui định, qui chế khác liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường. Từ đó có định hướng hoạt động, các chính sách ưu đãi đối với hoạt động nghiên cứu khoa học tạo ra sự chuyển biến tích cực cả về số lượng, chất lượng trong nghiên cứu khoa học.
Hai là, Cần phải có người đầu ngành chuyên môn về nghiên cứu khoa học để tư vấn và hỗ trợ cho các giảng viên, khơi dậy và kích thích niềm đam mê trong nghiên cứu khoa học của các giảng viên. Tạo môi trường thuận lợi để các giảng viên đề xuất, đăng ký đề tài, sáng kiến các cấp. Đồng thời xây dựng và hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin khoa học và để hỗ trợ các giảng viên trong việc cung cấp thông tin về các đề tài khoa học.
Ba là, thành lập câu lạc bộ NCKH trong nhà trường và tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ thường xuyên, tạo điều kiện giúp đỡ cho các giảng viên trẻ tham gia cùng làm đề tài với những người có kinh nghiệm.
Bốn là, Tổ chức các buổi hội thảo, sinh hoạt chuyên đề để chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau trong nghiên cứu khoa học.
Năm là, Cần có các chính sách phù hợp để động viên khích lệ các giảng viên trong nghiên cứu khoa học, nhất là hỗ trợ kinh phí, vật chất bảo đảm cho việc thực hiện các công trình khoa học và vinh danh các giảng viên có thành tích xuất sắc trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
Như vậy, có thể nói, hoạt động nghiên cứu khoa học gắn liền với hiệu quả của hoạt động giảng dạy.Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang là xu hướng phổ biến như hiện nay, với vai trò quan trọng của tri thức khoa học, việc đẩy mạnh NCKH trong giảng viên lại càng có ý nghĩa thiết thực.Hoạt động NCKH của giảng viên là một hoạt động rất quan trọng trong việc biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Đây cũng là cơ sở cần thiết để tiến hành đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, hướng đến đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao./.
Phòng Hợp tác & Nghiên cứu khoa học
![]() | Hôm nay | 1269 |
![]() | Tổng số | 3887080 |